Tìm hiểu pháp luật: Quy định chung Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

05/05/2022 | 08:19 GMT+7

(Tiếp theo)

Hỏi: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt được quy định như thế nào?

Trả lời: Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt như sau:

1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể.

3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

Hỏi: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm được quy định như thế nào ?

Trả lời: Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm như sau:

Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.

Hỏi: Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp nào ?

Trả lời: Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về miễn hình phạt như sau:

Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 (người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự) và khoản 2 (người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể) Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.

Hỏi: Thời hiệu thi hành bản án được quy định như thế nào ?

Trả lời: Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về thời hiệu thi hành bản án như sau:

1. Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.

2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án được quy định như sau:

a) 05 năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ 03 năm trở xuống;

b) 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 03 năm đến 15 năm;

c) 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 15 năm đến 30 năm;

d) 20 năm đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình.

3. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với pháp nhân thương mại là 05 năm.

4. Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

5. Trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người bị kết án cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ.

Hỏi: Trường hợp nào không áp dụng thời hiệu thi hành bản án ?

Trả lời: Điều 61 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về không áp dụng thời hiệu thi hành bản án như sau:

Không áp dụng thời hiệu thi hành bản án đối với các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, khoản 3 và khoản 4 Điều 353 (Tội tham ô tài sản), khoản 3 và khoản 4 Điều 354 (Tội nhận hối lộ) của Bộ luật này.

Hỏi: Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt được quy định như thế nào ?

Trả lời: Điều 64 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt như sau:

Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 63 của Bộ luật này.

(Còn tiếp)

Viết bình luận mới
Tin cùng chuyên mục
Các tin khác
Xem thêm >>